BẾP LỬA - BẰNG VIỆT

BẾP LỬA - BẰNG VIỆT

11/10/2021 CÔNG TY CP ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC STUDYCARE 0 Bình luận

BẾP LỬA - Bằng Việt

Tổng hợp và biên soạn:

Ms. Đặng Thiên Thanh

Lecturer and Content Marketing Specialist | Digital Marketing Department | StudyCare

Bachelor in Business Administration, Vietnam – Japan Institute of Technology, Ho Chi Minh City University of Technology

Bachelor in English Language & Literature, Hanoi Open University

A. KIẾN THỨC CƠ BẢN

I. Tác giả:

Bằng Việt, tên khai sinh là Nguyễn Việt Bằng, sinh năm 1941, quê ở huyện Thạch Thất, tỉnh Hà Tây. Bằng Việt làm thơ từ đầu những năm 60 và thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Hiện nay ông là chủ tịch Hội liên hiệp Văn học nghệ thuật Hà Nội.

 

II. Tác phẩm:

1. Hoàn cảnh sáng tác:

Bài thơ được sáng tác năm 1963, khi tác giả đang là sinh viên ngành luật ở nước ngoài. Bài thơ đã được đưa vào tập thơ Hương cây – Bếp lửa (1968), tập thơ đầu tay của Bằng Việt và Lưu Quang Vũ.

 

2. Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật:

- Nội dung: Qua dòng hồi tưởng và suy ngẫm của người cháu đã trưởng thành, bài thơ Bếp lửa gợi lại những kỉ niệm đầy xúc động về người bà và tình bà cháu, đồng thời thể hiện lòng kính yêu trân trọng và biết ơn của người cháu đối với bà, cũng là đối với gia đình, quê hương, đất nước.

 

- Nghệ thuật: Bài thơ đã kết hợp nhuần nhuyễn giữa biểu cảm với miêu tả tự sự và bình luận. Thành công của bài thơ còn là sự sáng tạo hình ảnh bếp lửa gắn liền với hình ảnh người bà, làm điểm tựa khơi gợi nên những kỉ niệm, cảm xúc, suy nghĩ về bà và tình cảm bà cháu.

 

- Mạch cảm xúc: Bài thơ là lời tâm sự của người cháu hiếu thảo ở phương xa gửi về người bà. Bài thơ được mở ra với hình ảnh bếp lửa, từ đó gợi về những kỉ niệm tuổi thơ sống bên bà tám năm ròng, làm hiện lên hình ảnh người bà tảo tần, ngày đêm chăm sóc, lo toan, vất vả và tình yêu thương trìu mến dành cho đứa cháu. Từ những kỉ niệm, đứa cháu nay đã trưởng thành, dần suy ngẫm và thấu hiểu về cuộc đời bà, về lẽ sống giản dị mà cao quí của bà. Cuối cùng, người cháu ở nơi phương xa muốn gửi niềm mong nhớ về với bà. Mạch cảm xúc bài thơ đi từ hồi tưởng đến hiện tại, từ kỉ niệm đến suy ngẫm.

 

3. Bố cục:

Khổ thơ đầu tiên: Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng cảm xúc hồi tưởng về bà.

Bốn khổ thơ tiếp theo: Những kỉ niệm thơ ấu bên bà và bếp lửa.

Khổ thơ thứ 6: Những suy nghĩ của tác giả và bà và hình ảnh cuộc đời bà.

Khổ thơ cuối: Nỗi nhớ của cháu về bà và bếp lửa.

 

B. PHÂN TÍCH TÁC PHẨM

1. Hình ảnh bếp lửa khơi nguồn cho dòng cảm xúc hồi tưởng về bà:

 

Một bếp lửa chờn vờn sương sớm

Một bếp lửa ấp iu nồng đượm

Cháu thương bà biết mấy nắng mưa.

 

- Bếp lửa “chờn vờn sương sớm”. Gợi tả hình ảnh bếp lửa có thật được cảm nhận bằng thị giác ẩn hiện trong sương sớm.

 

- Bếp lửa “ấp iu”. Gợi nên đôi bàn tay dịu dàng, kiên nhẫn, khéo léo và tấm lòng chăm chút của người nhóm lửa.

 

- Điệp ngữ “một bếp lửa” kết hợp cùng từ láy “chờn vờn, ấp iu” gợi lên hình ảnh sống động, lung linh của bếp lửa gần gũi, thân thuộc trong mỗi gia đình người Việt Nam xưa.

 

- Hình ảnh bếp lửa rất tự nhiên đã đánh thức dòng hồi tưởng của cháu về bà - người nhóm lửa mỗi sớm mai - một hình ảnh trong các bài thơ lúc nào cũng chập chờn, lay động “Cháu thương bà biết mấy nắng mưa”. Trong lòng đứa cháu đi xa trào dâng một cảm xúc thương bà mãnh liệt, thương người bà lặng lẽ, âm thầm trong khung cảnh “biết mấy nắng mưa”, “thương” - “bà”, hai thanh bằng đi liền nhau tạo ra âm vang như ngân dài xao xuyến, như nỗi nhớ trải dài của người cháu dành cho bà.

 

2. Những kỉ niệm thơ ấu bên bà và bếp lửa:

 

Lên bốn tuổi cháu đã quen mùi khói

Năm ấy là năm đói mòn đói mỏi

Bố đi đánh xe, khô rạc ngựa gày

Chỉ nhớ khói hun nhèm mắt cháu

Nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay!

 

Tám năm ròng cháu cùng bà nhóm lửa

Tu hú kêu trên những cánh đồng xa

Khi tu hú kêu, bà còn nhớ không bà

Bà hay kể chuyện những ngày ở Huế

Tiếng tu hú sao mà tha thiết thế!

Mẹ cùng cha công tác bận không về

Cháu ở cùng bà, bà bảo cháu nghe

Bà dạy cháu làm, bà chăm cháu học.

Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc,

Tu hú ơi! Chẳng đến ở cùng bà

Kêu chi hoài trên những cánh đồng xa?

 

Năm giặc đốt làng cháy tàn cháy rụi

Hàng xóm bốn bên trở về lầm lụi

Đỡ đần bà dựng lại túp lều tranh

Vẫn vững lòng, bà dặn cháu đinh ninh

“Bố ở chiến khu, bố còn việc bố

Mày viết thư chớ kể này, kể nọ

Cứ bảo nhà vẫn được bình yên!”

 

- Tuổi thơ của tác giả có nhiều gian khổ, thiếu thốn, nhọc nhằn.

 

- Thành ngữ “Đói mòn đói mỏi” - cái đói kéo dài làm mệt mỏi, kiệt sức, con ngựa gầy rạc cùng hình ảnh người bố đánh xe gầy khô,... gợi nên nỗi xót xa, ám ảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945 trước ngày cả nước ta vùng lên giành chính quyền. Quá khứ hiện về với hình ảnh những người chết đói đầy trên đường làng. Với những hình ảnh hết sức tiêu biểu, tác giả đã gợi cho ta thấy một quá khứ tang thương đầy những thảm cảnh của dân tộc gắn liền với số phận những người dân mất nước trong đó có cả tác giả, để nghĩ lại đến giờ sống mũi còn cay.

 

- Khi nhớ về kỉ niệm, dòng hồi tưởng còn gắn với âm thanh của tiếng chim tu hú. Âm thanh quen thuộc của chốn đồng quê mỗi độ hè về cứ vang vọng, cuộn xoáy trong lòng người con xa xứ. Có 11 câu thơ mà âm thanh ấy vang vọng đến 5 lần, khi thảng thốt, khắc khoải, có lúc lại mơ hồ văng vẳng từ những cánh đồng xa. Điệp ngữ và câu hỏi tu từ đã tạo nên những cung bậc khác nhau của âm thanh. Tất cả gợi lên không gian mênh mông, bao la, buồn vắng đến lạnh lùng. Trong những cung bậc khác nhau của âm thanh tiếng chim tu hú, tâm trạng của người cháu mỗi lúc một trở nên da diết, mạnh mẽ hơn. Bên cạnh bếp lửa hồng, bên cạnh âm thanh của tiếng chim tu hú, hai bà cháu gắn bó chia sẻ, chắt chiu những tình cảm ấm nồng suốt 8 năm ròng.

 

- Tám năm ấy, bà bảo, bà dạy, bà chăm đã diễn tả một cách sâu sắc, thấm thía tấm lòng đôn hậu, tình yêu thương bao la, sự chăm chút của bà đối với đứa cháu nhỏ. Từ “bà”“cháu” được điệp lại 4 lần gợi tả tình bà cháu quấn quít, yêu thương. Bà hiện lên ấm áp, tần tảo, chịu thương, chịu khó. Bà luôn là chỗ dựa vững chắc cho cháu, thay thế và lấp đầy tất cả. Bà là sự kết hợp cao quý giữa tình cha, nghĩa mẹ, ơn thầy.

 

- Hình ảnh người bà càng hiện lên rõ nét, cụ thể với những phẩm chất cao quý. Trong những năm tháng chiến tranh khó khăn và ác liệt ấy, cơ hàn rồi đến giặc giã, thế nhưng bà vẫn bình tĩnh, vững lòng, đinh ninh là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho cháu. Vẫn chỉ có hai bà cháu sớm hôm và bà vẫn vững lòng trước mọi tai họa, mọi thử thách khốc liệt của chiến tranh, làm tròn nhiệm vụ hậu phương để người đi xa công tác được yên lòng.

 

- Như vậy mạch cảm xúc xen kẽ lời kể, giọng điệu ngôn ngữ, hình ảnh thơ cứ lan tỏa dần, rõ dần lên giọng thơ chuyển từ trữ tình sang tự sự. Đó là giọng kể thủ thỉ, tâm tình, rất nhỏ, rất nhẹ. Làm cho dòng cảm xúc miên man và để lại những dấu ấn sâu đậm về người bà. Lời bà văng vẳng bên tai, vẫn đinh ninh trong lòng cháu. Người cháu trong bài thơ tuy phải sống xa cha mẹ, tuy tuổi thơ cực kì thiếu thốn nhưng em thật hạnh phúc trong vòng tay yêu thương của bà.

 

Rồi sớm chiều lại bếp lửa bà nhen

Một ngọn lửa lòng bà luôn ủ sẵn

Một ngọn lửa chứa niềm tin dai dẳng ...

 

- Hình ảnh bếp lửa được thay thế bằng hình ảnh ngọn lửa mang ý nghĩa ẩn dụ, tượng trưng cho ánh sáng, hơi ấm và sự sống. Cái bếp lửa mà bà nhen sớm sớm, chiều chiều không phải chỉ bằng nhiên liệu người ta vẫn thường dùng nhóm lửa mà đã sáng bừng lên ngọn lửa bất diệt, ngọn lửa của tình yêu thương luôn ủ sẵn trong lòng bà, ngọn lửa của niềm tin dai dẳng, ngọn lửa thắp sáng lên niềm tin, ý chí, hi vọng và nghị lực. Điệp ngữ “một ngọn lửa” nhấn mạnh tình yêu thương ấm áp bà dành cho cháu. Phải chăng chính ngọn lửa lòng bà đã nhen lên trong tâm hồn cháu ý chí, nghị lực và một tình yêu cuộc sống, một niềm tin tươi sáng về ngày mai. Đó là biểu hiện của sức sống muôn đời bất diệt mang niềm yêu thương, ý chí, nghị lực, niềm tin của bà truyền cho cháu. Khái quát hơn, đó là ý chí, là nghị lực, là niềm tin của cả một dân tộc trong thời kì lịch sử vô cùng khó khăn, chính niềm tin về một ngày mai hòa bình, một ngày mai tươi sáng và một tương lại tốt đẹp hơn đang chờ phía trước. Hình ảnh của bà trong tâm hồn nhà thơ không chỉ là người thắp lửa giữ lửa mà còn là người truyền lửa. Ngọn lửa ấy là ngọn lửa niềm tin, ngọn lửa sức sống truyền đến các thế hệ mai sau.

 

3. Những suy nghĩ của tác giả và bà và hình ảnh cuộc đời bà:

 

Lận đận đời bà biết mấy nằng mưa

Mấy chục năm rồi, đến tận bây giờ

Bà vẫn giữ thói quen dậy sớm

Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm

Nhóm niềm yêu thương, khoai sắn ngọt bùi

Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui

Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ

 

- Cuộc đời bà là một cuộc đời đầy gian truân, vất vả, nhiều lận đận, trải qua nhiều nắng mưa tưởng như không giờ dứt. Hình của bà cũng là hình ảnh của bao người phụ nữ Việt Nam giàu đức hi sinh dù gian truân vất vả vẫn sáng lên tình yêu thương dành cho con, cho cháu, cho đất nước muôn đời.

 

- Trong khổ thơ thứ sáu, điệp từ “nhóm” được nhắc đi nhắc lại tới bốn lần và mang những ý nghĩa khác nhau.

 

- Từ “nhóm” đầu tiên: “Nhóm bếp lửa ấp iu nồng đượm” - nhóm là động từ thể hiện một hành động làm cho lửa bén, cháy lên ngọn lửa và một bếp lửa hoàn toàn có thật có thể cảm nhận bằng mắt thường để xua tan đi cái lạnh giá của mùa đông khắc nghiệt để nấu chín thức ăn và đó là một bếp lửa rất bình dị. Nó có mặt ở mọi gian bếp của làng quê Việt Nam.

 

- Thế nhưng từ “nhóm” trong những câu thơ sau: “Nhóm niềm yêu thương khoai sắn ngọt bùi - Nhóm nồi xôi gạo mới sẻ chung vui - Nhóm dậy cả những tâm tình tuổi nhỏ” - từ nhóm lại mang ý nghĩa ẩn dụ. Với tác giả, bà đã nhóm lên, đã khơi dậy niềm yêu thương, những kí ức đẹp, có giá trị trong cuộc đời mỗi con người. Bà đã truyền hơi ấm tình người, khơi dậy trong tâm hồn cháu tình yêu thương ruột thịt, tình cảm sẻ chia, tình đoàn kết với hàng xóm láng giềng và rộng ra nữa là tình yêu quê hương đất nước. Và cũng chính từ hình ảnh bếp lửa, bà đã khơi dậy cả những kí ức, kỉ niệm tuổi thơ ấu trong cháu để cháu luôn nhớ về nó cũng có nghĩa là nhớ về cội nguồn, nhớ về đất nước quê hương, nhớ về dân tộc mình. Hình ảnh bếp lửa đơn sơ giản dị đã mang ý nghĩa khái quát trở thành ngọn lửa trong trái tim - một ngọn lửa ẩn chứa niềm tin và sức sống của con người Việt Nam.

 

Ôi kì lạ và thiêng liêng - Bếp lửa!

 

Câu thơ cảm thán cuối cùng sử dụng cấu trúc đảo thể hiện sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng như khám phá ra một điều kỳ diệu giữa cuộc đời bình dị. Từ ngọn lửa của bà, cháu nhận ra cả một niềm tin dai dẳng về ngày mai, cháu hiểu được linh hồn của một dân tộc vất vả, gian lao mà tình nghĩa.

 

4. Nỗi nhớ của cháu về bà và bếp lửa:

 

Giờ cháu đã đi xa, có ngọn khói trăm tàu

Có lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả

Nhưng vẫn chẳng lúc nào quên nhắc nhở

- Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa? ...

 

- Khổ thơ cuối là lời tự bạch của người cháu đi xa, khi đã trưởng thành nhà thơ thấu hiểu và mong muốn làm nổi bật lên sức mạnh cội nguồn ấy. Khoảng cách về không gian, thời gian với khói trăm tàu, lửa trăm nhà, niềm vui trăm ngả vẫn không thể làm cháu lãng quên ánh sáng và hơi ấm từ bếp lửa của bà, của quê hương, không thể quên được những lận đận đời bà, tấm lòng ấm áp của bà, những tận tụy hy sinh vì tình nghĩa của bà... Đó là đạo lý thủy chung cao đẹp của con Việt Nam được nuôi dưỡng trong mỗi tâm hồn con người từ thuở ấu thơ.

 

- Bài thơ được kết thúc bằng câu hỏi tu từ: “Sớm mai này bà nhóm bếp lên chưa?”. Câu hỏi ấy gợi cho người đọc cảm nhận như có một nỗi nhớ khắc khoải, thường trực, một nỗi nhớ đau đáu khôn nguôi, luôn nhớ về bà của tác giả. Nhớ về bà cũng chính là nhớ về quê hương, nhớ về cội nguồn.

 

- Tình cảm đó cũng đã được thể hiện qua “Đôi dòng tiễn đưa bà nội” mà tác giả viết khi bà qua đời, đó là những tình cảm kính trọng, biết ơn, là nỗi nhớ thương da diết của đứa cháu dành cho người bà kính yêu của mình:

 

Đôi mắt càng già, càng thấm thía yêu thương,

Dù da dẻ khô đi, tấm lòng không hẹp lại,

Giàu kiên nhẫn, bà còn hy vọng mãi

Chỉ mỗi ngày dắn lại, ít lời thêm.

Mười năm rồi, bà ạ!

Cháu chẳng có gì hơn trong phút tiễn đưa bà!

Giờ bà đã nằm trên đất đồng làng

Con đường cũ cháu về. Gắt gao màu nắng đỏ.

Cuộc đời bà đã qua tất cả

Lẳng lặng, khiêm nhường, không dấu tích gì!

 

Mười năm

Cháu dần lớn, nên người.

Rất nhiều điều phải đi đến tận cùng,

Chỉ có lòng bà thương

Đi bao giờ hết được?

 

⭐⭐⭐⭐⭐

StudyCare Education

The more we care - The more you succeed

⭐⭐⭐⭐⭐

  • 🔹 Bồi dưỡng Toán - Lý - Hóa - Sinh - Văn - Anh theo chương trình phổ thông Quốc Gia và chương trình học các cấp của các trường Quốc Tế.
  • 🔹 Luyện thi chuyển cấp lớp 9 lên lớp 10, luyện thi tốt nghiệp THPT Quốc Gia, Luyện thi Đại Học.
  • 🔹 Giảng dạy và luyện thi IELTS - TOEIC - TOEFL - PTE - SAT - ACT - GMAT - GRE và các chứng chỉ Quốc Tế.
  • 🔹 Hỗ trợ các loại hồ sơ, thủ tục cấp VISA Du học - Du lịch - Định cư các Quốc gia Châu Âu, Châu Úc, Châu Mỹ.
  • 🔹 Các dịch vụ dịch thuật chuyên nghiệp: dịch thuật chuyên ngành; dịch thuật công chứng; dịch thuật các loại sách, giáo trình.
  • 🔹 Hoạt động hỗ trợ học thuật chuyên môn cao: cung cấp số liệu, dữ liệu khoa học; xử lý các mô hình Toán bằng phần mềm chuyên dụng; cung cấp các tài liệu điện tử có bản quyền: sách chuyên ngành, các bài báo khoa học.

⭐⭐⭐⭐⭐

Công ty CP Đầu tư Phát triển Giáo dục StudyCare

MST 0313301968

⭐⭐⭐⭐⭐

📌 72/53 Nguyễn Văn Thương, Phường 25, Quận Bình Thạnh, TP.HCM

☎ Điện thoại: (028).353.66566

📱 Zalo: 098.353.1175

📋 Brochure: https://goo.gl/brochure

📧 Email: hotro@studycare.edu.vn

🏡 Location: https://goo.gl/maps/studycare

🌐 Visit us online: https://qrco.de/studycare

popup

Số lượng:

Tổng tiền: